Danh sách Blog của Tôi

Thứ Sáu, 25 tháng 2, 2011

Trò đùa của sự ngẫu nhiên ( Sưu tầm: Thùy Dương)


Chào mọi người.
Không hiểu sao năm mớii vui vẻ, thầy muốn các em đọc lại truyện này. Truyện thầy viết cho thầy, cho các em và mọi người, cũng là về thầy về các em và về mọi người đấy. Đọc sẽ hiểu.
Thầy nghĩ chúng ta được như ngày nay phần lớn là do số phận ngẫu nhiên đấy. Vậy nếu chúng ta may mắn thành đạt giàu có thì đừng quên những người kém may mắn hơn mình. hy vọng truyện ngắn sẽ giúp chúng ta suy ngẫm lần nữa về bản thân và người khác.
Như đã nói, ngoài việc học cách vơ vào cho mình, dần dần ta phải học cách cho người khác nữa, điều mà Micheal Jackson nói là THE ART OF GIVING.
Chúc mọi người ăn Tết vui vẻ.
Thầy Tân
__________________________________ 
Xét về mọi phương diện, ông Lộc là người may mắn và thành đạt. Khi nói về ông, người ta hay bảo: Cái số lão ấy sướng!

Ông mới bước qua tuổi năm mươi, và suốt chừng ấy năm, bất chấp chiến tranh, bất chấp khó khăn chung của đất nước và thời cuộc, đời ông diễn ra suôn sẻ và quá ư tốt đẹp. Cứ như có thần hộ mệnh luôn bên cạnh để che chở và lái con đường cuộc đời ông theo hướng may mắn. Nếu có khổ thì cũng chỉ những năm còn nhỏ, ấy là cái khổ của ăn chưa no lắm, mặc chưa đẹp lắm, và một ngày hai buổi vắt vẻo trên lưng trâu hoặc chơi khăng ngoài đồng cùng bọn trẻ, vì ông sinh ở nông thôn. Bù lại, nhà ông được xếp vào loại nghèo nhất dù chẳng kém nhà nào trong làng, nên nghiễm nhiên ông được ưu đãi mọi bề. Không phải thi chuyển cấp từ cấp hai lên cấp ba, sau đó đúng năm tốt nghiệp phổ thông, năm 1967, thì có chủ trương không phải thi đại học. Nhờ  thành phần cơ bản , ông được chọn đi học nước ngoài, tất nhiên đi nước xịn nhất là Liên Xô, và học trường xịn nhất là Lômônôxôp ở ngay thủ đô Matxcơva! Học cái môn ông không thật giỏi lắm là toán. Thế mà ông được học tiếp thành phó tiến sĩ, rồi tiến sĩ, ngẫu nhiên chỉ vì lúc ấy ít sinh viên Việt Nam và bạn muốn đào tạo  cán bộ đầu ngành  cho ta. Lúc ông về nước thì chiến tranh đã kết thúc từ lâu. Trước đấy ông chỉ tận mắt thấy máy bay Mỹ bay qua làng vài lần, còn bom nổ thì chưa lần nào.


Với tấm bằng tiến sĩ từ Liên Xô, đương nhiên ông được đặt vào chức vụ xứng đáng, lúc đầu là tổ trưởng bộ môn toán ở một trường đại học danh tiếng của thủ đô, sau cứ thế mà tiến - phó khoa, trưởng khoa, rồi giáo sư, còn bây giờ thì ông đang ngấp nghé chức phó hiệu trưởng của chính cái trường ấy. Một ước mơ trong tầm với, và trước khi về hưu chắc ông phải được ngồi ở ghế hiệu trưởng ít năm. Ông tin như thế, mọi người cũng tin như thế. Biết đâu ông chẳng còn tiến xa hơn. Vậy chắc phải giỏi chuyên môn lắm? Không hẳn. Tất nhiên ông không dốt, vì quá dốt, cũng như quá giỏi, ông đã chẳng được như ông ngày nay.

Các mặt khác, ông cũng may mắn và thành đạt không kém. Bà vợ xinh đẹp nết na vốn là sinh viên của ông, được chồng nâng đỡ nay đã là trưởng phòng khoa học. Hai đứa con gái đang học đâu đó bên Âu Mỹ, tất nhiên theo diện học bổng toàn phần nhờ quan hệ riêng của vợ chồng ông với đồng nghiệp nước ngoài. Còn kinh tế thì khỏi nói, ngay từ thời khó khăn nhất ông đã được cấp một căn hộ kép tầng một ngay trong trường. Tiền bạc cứ rủ nhau theo ông vào nhà, qua các chuyến công tác nước ngoài khá thường xuyên (cái thời đi nước ngoài được coi là cách làm giàu nhanh và dễ nhất), qua vụ ông vào Miền Nam lập chi nhánh trường ngày mới giải phóng, khi ra khuân bao nhiêu là đồ, cộng một ngôi nhà ở quận Hai ông xin được với danh nghĩa cho trường nhưng thực ra là của ông. Thời mở cửa thì ông mở lớp dạy thêm, rồi mở trung tâm luyện thi đại học. Ðấy là chưa nói ông trúng đậm mấy quả kinh doanh bất động sản, cả những năm 93 - 94 và mới vừa rồi. Tóm lại, hiện giờ ông là người giàu, rất giàu, đến mức nhiều khi chính ông cũng không tin mình có thể giàu đến mức ấy...

Vậy quả đúng ông Lộc là người may mắn và thành đạt mọi bề. Ông hài lòng với mình, với cuộc sống đang có. Sự hài lòng ấy thể hiện qua tạng người béo tốt, cử chỉ tự tin và qua cả nụ cười bao dung, dễ dãi.  Cái số lão ấy sướng!  ông thường nghe người ta nói sau lưng như vậy, không phải không chút ghen tị, nhưng ông chả giận vì đang tràn trề hạnh phúc, do vậy đứng cao hơn sự chấp nhặt của người đời. Ông thành thật tin những gì ông đạt được là nhờ đầu óc thông minh và lao động chân chính của mình. Nghĩ thế cũng đúng, vì công bằng mà nói, ông thuộc loại người tử tế và chưa làm điều gì thất đức để lương tâm phải cắn rứt.

 Chẳng có số phận nào hết! Tất cả đều do nỗ lực bản thân!  ông hãnh diện nói với mình và với người khác, rồi tự lúc nào không biết, ông bắt đầu có cái nhìn như kiểu từ trên nhìn xuống với những người nghèo và kém thành đạt hơn. Thậm chí ông còn động lòng thương hại họ.
                                                                          *                                                        
- Lúc nãy giáo sư nói thế chưa hẳn đúng hoàn toàn.

Ông Lộc quay sang nhìn. Ðang thong thả bước bên ông là một ông già bé nhỏ ăn mặc lịch sự tuy hơi cổ lỗ, đặc biệt chiếc mũ phớt nhăn nhúm trên đầu dù đang mùa hè, và chiếc khăn trắng dắt lé một cách kiểu cách trên túi áo vét.


- Xin lỗi, nhưng tôi đã nói gì cơ ạ?


- Về chuyện có hay không có số phận ấy mà. Và về cả cái lập luận  nỗ lực cá nhân  của giáo sư nữa.


Ông Lộc khẽ à một tiếng. Chả là lúc nãy, như thường lệ vào các chiều chủ nhật, ông cùng mấy người bạn ngồi uống bia, chuyện gẫu với nhau suốt buổi ở đầu phố Tông Ðảng. Ông mới tập uống bia vài năm nay, và tự cho phép mình mỗi tuần một lần được thư giãn theo cách ấy. Nhân hôm qua truyền hình chiếu những cảnh thương tâm về các nạn nhân chất độc màu da cam, lần này họ sôi nổi nói đề tài ấy. Là những trí thức tâm huyết với đời, ai cũng tỏ vẻ xúc động chân thành, không tiếc lời lên án bọn Mỹ vô nhân đạo và vô trách nhiệm.  Âu cũng là cái số mà họ phải chịu!  một người chép miệng. Thế là đề tài câu chuyện quay sang số phận. Như thường lệ, ông Lộc  hăng hái bảo vệ quan điểm  nỗ lực cá nhân  của mình, theo kiểu anh lười, tức là không chịu lao động, học hành tử tế, thì không thể thành đạt, cũng như người không chú ý nhìn đường thì có thể dễ dàng rơi xuống hố. Về buổi truyền hình hôm qua, theo ông, người ta có thể chủ động tránh được phần nào những cảnh đau lòng ấy. Thí dụ, những ai sống và chiến đấu ở vùng bị rải chất độc đáng lẽ phải đi khám bác sĩ xem có bị nhiễm không, nếu có thì phải tìm cách giải độc. Y học hiện đại chắc làm được điều ấy. Hoặc nếu đã trót sinh đứa con dị tật thì đừng sinh tiếp những đứa dị tật khác. Thậm chí cả khi lâm vào cảnh ấy,  nếu cố gắng, hết sức cố gắng, người ta cũng có thể vượt qua số phận! Khối người bệnh tật hiểm nghèo mà vẫn trở thành nổi tiếng đấy sao?   Ðại khái ông nói như vậy, và người khác, dẫu không tán thành nhưng cũng không bác bẻ được.


Ông Lộc tò mò nhìn ông già lạ mặt. Chắc ông ta cũng có mặt ở quán bia lúc ấy và đã nghe hết câu chuyện của họ. Tính ông không thích bắt chuyện với người lạ, nhưng lúc này ông đang vui, đang hưởng cái thú được đi bộ về ngôi biệt thự cổ xinh xắn của mình ở xóm Hạ Hồi. Một quãng đường xa, nhưng ông thích đi bộ hơn ô-tô (ông có ô-tô riêng, thuê hẳn một người lái trực 24 trên 24). Ði bộ là cách thư giãn mà chỉ những người thật giàu như ông mới kham nổi.


- Nghĩa là... - ông ngập ngừng không biết nên xưng hô thế nào, ông hay bác . - Nghĩa là bác cũng tin vào số phận?


- Cả có mà cũng cả không. - Ông kia đáp. - Theo kiểu nói dân gian thì là số phận, nhưng dưới góc độ khoa học, có thể gọi theo cách khác.


- Theo bác thì gọi là gì ? - Ông Lộc hỏi, cảm thấy ông già kỳ quặc này có thể là người nói chuyện thú vị.


- Tôi cùng đường với giáo sư.

 Cùng đường với mình? Ông ta biết mình đi đâu mà bảo cùng đường?  Ông Lộc thầm ngạc nhiên nhưng không nói gì.

- Tôi có việc tới ga Hàng Cỏ. - Ông già nói tiếp. - Nếu giáo sư không phản đối, ta vừa đi vừa nói chuyện. Hôm nay quả là một ngày đẹp trời.


Ông già nheo nheo mắt sau cặp kính tròn bé tí treo trên đầu mũi, kiểu kính các trí thức cũ Hà Nội ưa dùng cách đây năm, sáu chục năm.


- Cái mà chúng ta vẫn gọi là số phận ấy mà, theo tôi đơn giản chỉ là trò đùa ngẫu nhiên. Sự ngẫu nhiên, ở các mức độ khác nhau, chi phối mọi cái trên đời này, cả ở cấp vĩ mô là vũ trụ, lịch sử thế giới, lẫn cấp vi mô là cuộc sống của từng con người chúng ta. Như giáo sư biết, nếu trái đất không bị thiên thạch ngẫu nhiên va đập mạnh cách đây sáu mươi lăm triệu năm, ắt loài khủng long đã không tuyệt chủng, mặt đất không bị băng hà xâm chiếm, và sự phát triển của sự sống hành tinh chúng ta có thể đã đi theo một hướng khác. Pascal từng nói một câu nổi tiếng:  Tướng Cromwell sắp tàn phá cộng đồng Cơ Ðốc giáo. Hoàng gia Anh đã sụp đổ, và dòng họ Cromwell sẽ đời đời hùng mạnh nếu không vì một hạt sạn nhỏ nằm trong đường tiết niệu của ông. Ngay cả nhà thờ La Mã cũng khiếp sợ trước ông, nhưng chỉ vì hạt sạn bé nhỏ ấy mà ông qua đời, dòng họ Cromwell cũng suy sụp theo. Mọi việc lại tiếp diễn theo cách cũ của mình, và một vị vua mới lại lên ngôi!  Giáo sư thấy đấy, tất cả chỉ vì một hạt sạn ngẫu nhiên. Lại nữa, ai biết được lịch sử châu Âu cận đại sẽ thế nào nếu khi còn là một sĩ quan pháo binh trẻ tuổi ở đảo Corse, Napoleon không được một người đàn bà bình thường ngẫu nhiên cứu khỏi cái chết trong gang tấc? Ðiều này có nói đến trong tác phẩm của Maupassant, chắc giáo sư đã đọc?


Ông Lộc khẽ gật đầu mặc dù ông ít đọc sách văn học, còn Maupasant thì ông đọc từ hồi sinh viên, mà cũng chỉ mấy truyện. Cromwell ông cũng biết rất lờ mờ, mang máng nhớ hình như ông ta là vị tướng lỗi lạc người Anh.


- Thế còn cấp vi mô? - ông Lộc thực sự thấy câu chuyện trở nên thú vị.


- Cũng thế cả, có điều ở qui mô nhỏ hơn, chỉ liên quan đến một người hoặc một nhóm người. Trở lại vấn đề chất độc màu da cam. Việc Mỹ ném nó xuống Việt Nam và gây hậu quả tai hại là một tất yếu. Chính quyền Mỹ phải  chịu hoàn toàn trách nhiệm điều đó. Trong chiến tranh, bị thương, chết chóc là sự tất yếu, nhưng bị thương hoặc bị chết ở đâu, thế nào, lại thuộc phạm trù ngẫu nhiên. Gã con trai của đô đốc Zumwalt (ông này trực tiếp ra lệnh rải chất độc điôxin xuống đồng bằng sông Cửu Long năm 1966) ngẫu nhiên được sung vào lực lượng tuần tiễu dọc các kênh rạch khu vực này nên bị chết. Hàng nghìn nạn nhân Việt Nam khác như ta thấy hôm qua trên vô tuyến cũng vậy. Ngẫu nhiên có mặt lúc ấy ở thời điểm ấy nên bị nhiễm. Ngẫu nhiên lấy phải người bị nhiễm, ắt sẽ sinh ra những đứa trẻ dị tật tội nghiệp. Cả tôi và giáo sư cũng không là ngoại lệ. Nếu hoàn cảnh đưa đẩy, tức là trò đùa của sự ngẫu nhiên ấy rơi vào chúng ta, tôi và giáo sư, nhất là giáo sư, đều có thể dễ dàng nhiễm nó. Chúng ta cùng con cái, người thân chúng ta sẽ bất hạnh như thế, thậm chí còn hơn...


- Sao bác bảo nhất là tôi? - Ông Lộc tò mò hỏi, thoáng chút khó chịu.


- Vì xác suất giáo sư gặp cái ngẫu nhiên đó lớn hơn tôi. Lúc ấy giáo sư mới hai mươi tuổi, tuổi quân dịch, còn tôi đã gần sáu mươi. Vả lại, suốt thời gian chiến tranh tôi sống ở nước ngoài...

 Năm 66 đã sáu mươi, vậy bây giờ hơn một trăm? Lão già này hoặc mất trí, hoặc là một lão phù thủy!  Ông Lộc nhíu mày, hỏi:

- Xin lỗi, nhưng bác là ai?


- Một đồng nghiệp của giáo sư. Người ta cũng gọi tôi là  giáo sư  đấy, mặc dù tôi chưa bao giờ được chính thức phong tặng danh hiệu cao quí đó. Tôi là một nhà nghiên cứu, chính xác hơn, một nhà phát minh độc lập. Ông đừng mất công bới lục trí nhớ để biết tôi là ai. Ông không biết đâu. Vả lại điều ấy chẳng có ý nghĩa gì. - Rồi nhìn ông Lộc bằng đôi mắt nheo nheo tinh nghich sau cặp kính, ông già cười nói: - Giáo sư yên tâm. Tôi là người tử tế. Chí ít không có ý định xấu xa nào. Hơn thế, bằng các phát minh của mình, tôi có thể chứng minh được đôi điều đã nói. Cả những điều trực tiếp liên quan đến giáo sư, tất nhiên nếu giáo sư muốn...


- Liên quan đến tôi? - Ông Lộc buột miệng thốt lên. - Sao lại liên quan đến tôi? Liên quan cái gì?


- Cái trò đùa của sự ngẫu nhiên. Chẳng hạn, vì một sự ngẫu nhiên nào đó, nhỏ thôi, nhỏ như hạt sạn trong đường tiết niệu của tướng Cromwell, cuộc đời của giáo sư có thể đã thay đổi hoàn toàn. Chính xác là giáo sư tránh được một sự ngẫu nhiên trong đời mình. Nên mới là giáo sư, một người may mắn, thành đạt như ngày nay. Nếu không thì...


- Nếu không thì sao?


- Giáo sư muốn biết à?


- Vâng. Nhưng làm sao bác chứng minh... Làm sao bác chỉ cho tôi thấy được điều ấy?


- Ðó là việc của tôi. Tôi là nhà phát minh, và có đủ các phương tiện cần thiết để làm việc ấy. Nếu giáo sư thực tình muốn thì hãy đi theo tôi. Ngay bây giờ càng tốt vì tôi chẳng còn ở đây lâu nữa. - Thấy ông Lộc có vẻ do dự, ông già nói thêm: - Ðừng lo. Không có chuyện gì đâu, ngoài một cú sốc nhỏ về tinh thần, là điều có thể có lợi cho giáo sư đấy.


- Ta ngồi xuống đây nghỉ tí đã. - Ông Lộc chỉ chiếc ghế đá ở vườn hoa nhỏ cạnh phố Tràng Thi. Ông đang bối rối trước một sự lựa chọn tế nhị. Ông tò mò muốn biết cuộc đời suôn sẻ của ông mà ông coi như đương nhiên phải thế có thể trở thành khác như thế nào. Tuy nhiên, vốn thận trọng, ông không thể không tính tới những hậu quả chưa lường trước. - Tôi chưa thật hiểu lắm. Xin bác nói lại...

                                                                        *                                                  
Khoảng mười lăm phút sau, ông Lộc theo ông già lạ mặt đi dọc phố Hàng Trống rồi đến một con hẻm nhỏ mờ tối trông rất lạ. Hình như các đường phố lân cận cũng khang khác. Ông đưa mắt tìm biển phố nhưng không thấy. Căn phòng họ bước vào ở ngay tầng một, nằm khuất bên trong. Nó khá rộng, ngổn ngang các dụng cụ thí nghiệm và một đống sách báo phủ đầy bụi.

- Tôi ít khi làm việc ở đây nên hơi bừa bộn, giáo sư thông cảm. Sẽ không mất nhiều thời gian đâu. Thế này nhé! - ông già vừa nói vừa dẫn khách lại gần một chiếc tủ kim loại hình vuông trong góc phòng. - Ðây là phát minh mới nhất của tôi. Nó có nhiều chức năng, có thể đưa ta trở lại quá khứ hoặc biết trước tương lai. Hôm nay nó sẽ giúp giáo sư biết thêm một hướng phát triển khác của đời mình...


- Bằng cách nào?


- Rất đơn giản. Phát minh ra chiếc máy này mới phức tạp chứ sử dụng nó thì đơn giản lắm. Giáo sư chỉ việc ngồi lên chiếc ghế trong đó. Máy ly tâm sẽ quay với vận tốc cực lớn và đưa ông sang một thế giới khác, trong trường hợp này là một mảng đời khác có thể xẩy ra với ông. Giáo sư không cần ra ngoài, điều ấy có thể nguy hiểm, chỉ cần nhìn qua tấm kính nhỏ là đủ. Ðừng sợ, không ai nhìn thấy ông đâu, không đau đớn hoặc nguy hiểm chút nào. Chiếc ghế được thiết kế đặc biệt để không bị tác động bởi vòng quay máy ly tâm. Mười lăm phút sau hoặc lâu hơn nếu giáo sư muốn, nhưng tôi nghĩ chừng ấy là đủ, nó sẽ đưa ông trở lại trạng thái bình thường như bây giờ. Lúc ấy chúng ta sẽ nói chuyện tiếp, nếu cần, tôi sẽ giải thích thêm đôi điều. Thế nào, ta thử chứ?


Ông Lộc bối rối nhìn ông già vẻ dò xét, nhưng không thấy dấu hiệu mờ ám nào ở con người kỳ cục này. Ông khẽ gật đầu rồi chui vào chiếc tủ sắt, ngồi xuống chiếc ghế xoay có lưng tựa và hai tay vịn. Ông hít thở sâu và từ từ nhắm mắt...


Có tiếng gì đó bắt đầu xoay êm êm. Ông Lộc lặng người, cảm thấy mình bị đưa đi đâu đó rất xa, chẳng hiểu xa về thời gian hay khoảng cách. Ông không dám mở mắt, và biết có mở cũng chẳng thấy gì ngoài một màu tối đen. Cuối cùng là im lặng. Sự im lặng tuyệt đối. Không chuyển động. Không một âm thanh nhỏ. Mãi lúc sau ông mới mở mắt nhìn vào ô kính trước mặt nhưng chẳng thấy gì ngoài một mảng nhờ nhờ. Tuy nhiên, nhìn kỹ,  mảng nhờ nhờ ấy bắt đầu tan dần và ông nhìn thấy cảnh một gia đình nghèo, chắc là nông dân vì có hai chiếc hái gặt lúa treo trên tường. Tường nhà bằng phên tre trát bùn, nhiều chỗ đã thủng. Nhà tuềnh toàng và nghèo đến mức khó tin. Mấy chiếc xoong bẩn vứt ngổn ngang đầy ruồi bâu. Cả nhà chỉ có một chiếc giường gỗ tạp mòn sứt, bừa bộn chăn màn, quần áo cũ. Lẫn giữa đống giẻ ấy là một đứa bé oặt ẹo, dị dạng, vì thế ông không biết bao nhiêu tuổi, có thể mười mà cũng có thể ba mươi. Cái đầu to quá cỡ với đôi mắt đần độn vô hồn. Ðôi chân khoèo bé tí, chắc không đi được nên phải nằm trên giường. Nó chỉ có một tay, thỉnh thoảng lại giơ lên bắt những con ruồi bạo dạn trước mặt, cho vào mồm. Không bắt được cũng cho vào mồm. Rồi nhai, vẻ ngon lành. Tiếp đến, bước vào nhà là một ông già mặc quần đùi, chân đất, da đen nhẻm, đầu tóc bù xù bạc trắng. Chắc ông ta vừa đi làm hay đâu đó về, nét mặt quàu quạu, đau khổ và tuyệt vọng.


Ông Lộc giật thót mình khi nhận ra con người ấy chính là ông. Ông dụi mắt không tin và nhìn kỹ lần nữa. Ðúng. Ông. Khác lắm, nhưng chính là ông. Con người ta có thể thay đổi nhiều, nhưng những nét chính vẫn nhận ra được, nhất là bản thân mình. Ông già kia kêu to cái gì đấy nhưng ông Lộc không nghe rõ. Ngồi ở đây ông chỉ nhìn chứ không nghe được. Liền sau đó, một ông già khác đi vào. Cũng có thể đó là một người còn trẻ, cũng dị tật nên không thể biết tuổi. Người này cổ ngẹo một bên, miệng méo sang bên khác, hai tay lành lặn nhưng một chân teo nên phải chống nạng. Khuôn mặt mang đầy đủ dấu hiệu của sự chậm phát triển trí tuệ.  Con mình đấy! Cả đứa nằm trên giường cũng con mình!  Ông Lộc ôm mặt không dám nhìn tiếp. Khi ông mở mắt thì thấy hai phụ nữ, một trẻ một già, ăn mặc tươm tất và hoàn toàn bình thường, đang vừa nói gì đó vừa lễ phép chìa ra một chiếc phong bì. Ông kia đỡ lấy nó bằng cả hai tay, miệng mấp máy rối rít, vẻ cảm động lắm.


Ðúng lúc ấy thì ông Lộc lại nghe có tiếng máy ly tâm quay, rồi ông đang bay ngược trở lại. Bất giác ông thở phào nhẹ nhỏm, muốn trở về với cuộc sống thật hiện tại của mình càng nhanh càng tốt. Tuy nhiên, ông vẫn kịp nhìn thấy thằng bé-ông già con ông rút ra từ chiếc phong bì một tờ giấy bạc năm mươi nghìn đồng còn mới. Mắt nó long lanh. Nó cười sung sướng. Một nụ cười méo trên khuôn mặt đần độn. Còn ông, tức là ông già chân đất kia thì đứng cạnh, không hiểu sao lại khóc...

                                                                         *                                            

- Thưa giáo sư, ông thấy thế nào? Chắc ngạc nhiên lắm phải không? - Ông già bác học hỏi với giọng thông cảm, nhưng nếu tinh, vẫn nhận thấy có chút giiễu cợt trong đó.


Ông Lộc ngồi im, hai tay ôm mái đầu đã lốm đốm bạc. Ông ngồi như thế kể từ lúc trở lại, mồ hôi vã đầy trán. Ông vẫn chưa hết bàng hoàng trước những gì mới tận mắt chứng kiến.


- Nhưng bây giờ giáo sư đang ở đây an toàn, chốc nữa sẽ lại có mặt trong căn biệt thự cổ ở xóm Hạ Hồi với bà vợ xinh đẹp và những vật quen thân của mình. Thì tôi đã nói trước rằng sẽ bị sốc chút ít. Tôi rất hiểu tình cảm giáo sư lúc này. Tôi cũng biết giáo sư đang thắc mắc vì sao có thể như thế được. Ðơn giản thôi mà. Tất cả chỉ vì một sự cố ngẫu nhiên nhỏ, rất nhỏ. Có thể giáo sư còn nhớ, nhưng tôi cứ nhắc lại. Cuối tháng Bảy năm 1967, chính xác là vào ngày 28, giáo sư, lúc ấy mới tốt nghiệp phổ thông, nhận được giấy báo đi học nước ngoài. Tuy nhiên, trước đó năm ngày, điều này chắc chắn giáo sư không biết, cậu Thịnh, nhân viên bưu điện huyện Diễn Châu đã nhận từ Huyện Ðội ba giấy gọi nhập ngũ mang về xã Diễn Lộc, trong đấy có một giấy ghi tên giáo sư. Tiếc thay, cũng có thể gọi may thay, đến Chợ Hôm cậu ấy bị một chiếc xe tải quệt phải, nhẹ thôi nhưng phải nằm viện một tuần, khi đưa được giấy tới xã thì giáo sư đã ra tới Hà Nội và đang chuẩn bị lên tàu liên vận đi Matxcơva. Cái ngã ba đường đời quan trọng của giáo sư được bắt đầu từ Chợ Hôm, nơi cậu Thịnh ngẫu nhiên bị quẹt xe. Vậy là thay cho ra chiến trường, giáo sư đi học nước ngoài và trở thành như ngày nay. Giáo sư không phải băn khoăn điều ấy. Lương tâm giáo sư trong sạch. Trước đó, như mọi học sinh khác trong lớp, giáo sư đã viết đơn tình nguyện ra chiến trường. Tất cả đều do ngẫu nhiên. Những gì giáo sư vừa nhìn thấy là một đường rẽ khác của cuộc đời, nếu không có cú quệt xe ngẫu nhiên kia. Bây giờ thì chắc giáo sư dễ đoán những gì xẩy ra sau đó. Giáo sư đi bộ đội, vào Nam, bị nhiễm chất độc màu da cam đâu đó chính giáo sư cũng không biết. Rồi hòa bình trở về nhà làm anh nông dân, lấy vợ và sinh ra đứa con dị dạng. Hai vợ chồng giáo sư đau buồn, năm năm sau cố đẻ thêm đứa nữa để bù đắp cho đứa kia. Không ngờ đứa này còn dị dạng hơn. Vợ giáo sư quá đau buồn đổ bệnh rồi chết, chỉ trách trời oan nghiệt chứ bà ấy, cả giáo sư nữa, lúc đó không có chút khái niệm nào về hậu quả của thứ chất độc kia. Thời ấy người ta không nói đến nó nhiều như bây giờ. Thành ra giáo sư phải một mình nuôi hai thằng con tật nguyền trong cảnh đói nghèo và tuyệt vọng cùng cực về tinh thần. Vừa rồi giáo sư được tận mắt chứng kiến điều ấy. Hôm nay ngẫu nhiên đúng ngày thương binh liệt sĩ nên giáo sư mới thấy hai bà cán bộ xã kia đến thăm và cho tiền.


- Bác biết trước như thế sao còn bắt tôi xem những cảnh đau lòng ấy? - Cuối cùng ông Lộc lên tiếng nói, giọng yếu ớt.


- Xin lỗi nếu tôi có làm giáo sư buồn, nhưng quả thực tôi đâu có bắt. Chính giáo sư tò mò muốn biết đấy thôi. Mà tôi thì muốn chứng minh cho cái thuyết  ngẫu nhiên  của tôi, như giáo sư từng nhiều lần hùng hồn chứng minh cho thuyết  nỗ lực cá nhân  của mình.


- Chắc bác muốn dạy tôi một bài học?


- Ấy chết, đâu dám! Ðúng như giáo sư vừa nói, đó là những cảnh thật đau lòng. Biết bao con người ở đất nước này đang phải chịu cái đau ấy, không phải một ngày, một tháng mà nhiều năm ròng, suốt đời. Cả xã hội, trong đó có giáo sư và tôi đều thông cảm với họ, thương họ, quyên góp tiền giúp họ. Oái oăm thay, cái đau ấy có thể rơi vào bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào, và không một  nỗ lực cá nhân  nào có thể giúp né tránh, vì đơn giản đó là kết quả của trò chơi ngẫu nhiên. Lâm vào hoàn cảnh ấy, tôi nghĩ, chắc chúng ta sẽ có một cái nhìn khác, chân thành và ưu ái hơn với đồng loại.


- Bác là phù thuỷ?


Không có tiếng đáp. Khi ông Lộc ngước lên nhìn thì không thấy ông kia đâu nữa. Không thấy cả chiếc tủ sắt đáng sợ.

                                                                          *                                           
Nghe nói sau đó, giáo sư Lộc, con người may mắn và thành đạt ấy, đã ốm nặng phải nằm viện một tháng mới khỏi. Ông bỏ thói quen uống bia vào các chiều chủ nhật, bỏ cả thói quen đi bộ, và dường như ông quan tâm tới các sách triết lý cổ nhiều hơn việc làm sao được ngồi vào chiếc ghế hiệu trưởng suốt đời ông mong ước.

Thứ Năm, 24 tháng 2, 2011

CON ĐƯỜNG CẦU HỌC (Hà sưu tầm)

Một câu chuyện đầy xúc động về ý chí nghị lực phi thường và tình thương vĩ đại của mẹ...
Đi học bằng số tiền đi vay ngày càng lớn dần. Người ông đau yếu qua đời trong cảnh nghèo túng. Người bố ung thư hi sinh không chịu chữa chạy. Người mẹ tần tảo quần quật làm việc ngày đêm... Tất cả chỉ để cho người con có thể theo học đến nơi đến chốn. Và, đứa con ấy đã không phụ lòng cả gia đình để trở thành niềm tự hào của cả Trung Quốc khi đạt Huy chương Vàng tại kỳ thi IMO (Olympic Toán quốc tế) năm 1997. Câu chuyện vươn lên đầy nghị lực của An Kim Bằng sẽ là một khích lệ lớn với nhiều bạn trẻ.

Tuổi thơ khốn khó
Nhà tôi vô cùng nghèo khó.Khi tôi ra đời, bà nội ngã bệnh ngay trên giường sưởi. Tôi 4 tuổi, ông nội lại mắc bệnh hẹp khí quản và bán thân bất toại, những món nợ trong nhà lớn dần theo năm.
Khi 7 tuổi, tôi được đi học, học phí là mẹ vay người khác.
Tôi thường đi nhặt những mẩu bút chì bạn bè vứt đi, dùng dây buộc nó lên một cái que rồi viết tiếp, hoặc dùng một cái dây chun xoá sạch những cuốn vở bài tập đã viết, rồi viết lại lên đó. Mẹ thương tôi đến mức, cũng có lúc đi vay vài hào của hàng xóm để mua vở và bút chì cho tôi.
Nhưng cũng có những khi mẹ vui vẻ, là khi bất kể bài kiểm tra nhỏ hay kỳ thi lớn, tôi luôn đứng đầu, toán thường được 100/100 điểm. Dưới sự khích lệ của mẹ, tôi càng học càng thấy ham thích. Tôi thực sự không hiểu trên đời còn có gì vui sướng hơn được học hành.
Chưa đi học lớp 1, tôi đã thông thạo cộng trừ nhân chia và phân số, số phần trăm. Khi học Tiểu học tôi đã tự học để nắm vững Toán Lý Hoá của bậc THPT. Khi lên trung học, thành phố Thiên Tân tổ chức kỳ thi Vật lý của bậc Trung học, tôi là đứa học trò nông thôn duy nhất của cả 5 huyện ngoại thành Thiên Tân được giải, và là 1 trong 3 người đỗ đầu.
Tháng 6 năm đó, tôi được đặc cách vào thẳng trường Trung học số 1 danh tiếng của Thiên Tân, tôi vui sướng chạy như bay về nhà.
Nào ngờ, khi tôi báo tin vui cho cả nhà, mặt bố mẹ chất chứa toàn những đau khổ. Bà nội vừa mất nửa năm, ông nội đang gần kề cái chết, nhà tôi đã mắc nợ tới hơn mười nghìn nhân dân tệ rồi. Tôi lặng lẽ quay về bàn học, nước mắt như mưa suốt 1 ngày.
Đến tối, tôi nghe thấy ở ngoài nhà có tiếng ồn ào. Thì ra mẹ tôi đang định dắt con lừa con của nhà đi bán, cho tôi đi học, nhưng ba tôi không chịu.
Tiếng ồn ào làm ông nội nghe thấy, ông đang bệnh nặng, trong lúc buồn bã ông đã lìa đời.


Bán lừa, nhịn chữa bệnh cho con đi học

Sau lễ an táng ông nội, nhà tôi lại mắc thêm vài nghìn tệ tiền nợ nữa. Tôi không còn dám nhắc đến việc đi học nữa, tôi cất "Giấy báo nhập học" thật kỹ vào vỏ gối, hàng ngày tôi ra đồng làm việc cùng mẹ.
Sau hai hôm, tôi và ba tôi cùng lúc phát hiện ra: con lừa con biến mất rồi.
Ba tôi sắt mặt lại, hỏi mẹ tôi: "Bà bán con lừa con rồi à?
Bà bị thần kinh à? Sau này lấy gì kéo, lương thực hoa màu bà đẩy xe tay nhé, bà tự cõng nhé? Bà bán lừa 1, 2 trăm bạc liệu cho nó học được một hay là hai học kỳ?".
Hôm đó mẹ tôi khóc. Mẹ dùng một giọng rất dữ dội rất hung dữ để gào lại ba tôi: "Con cái mình đòi đi học thì có gì sai? Nó thi lên được trường số 1 của thành phố. Nó là đứa duy nhất của cả huyện này đấy, tôi không thể để cho tiền đồ của nó bị lỡ dở được. Tôi sẽ dùng tay đẩy, dùng lưng vác, để cho nó đi học...".
Cầm sáu trăm tệ mẹ vừa bán lừa, tôi thật sự chỉ muốn quỳ xuống dập đầu trước mẹ. Tôi đã thích được học quá rồi, mà còn học tiếp, thì mẹ sẽ khổ sở bao nhiêu, vất vả bươn chải thêm bao nhiêu?
Mùa thu năm đó, tôi quay về nhà lấy áo lạnh, thấy mặt ba tôi vàng như sáp, gầy da bọc xương đang nằm trên giường sưởi. Mẹ bình thản bảo: "Có gì đâu, bị cảm, sắp khỏi rồi". Ai ngờ, hôm sau tôi xem vỏ lọ thuốc của ba, thì thấy đó là thuốc ngăn ngừa tế bào ung thư phát triển.
Tôi kéo mẹ ra ngoài nhà, khóc hỏi mẹ mọi chuyện là thế nào. Mẹ bảo, từ sau khi tôi đi học, ba bắt đầu đi ngoài ra máu, ngày càng nặng lên. Mẹ vay sáu nghìn tệ đưa ba lên Thiên Tân, Bắc Kinh, đi khắp nơi, cuối cùng xác định là u nhu ruột bowel polyps, bác sĩ yêu cầu ba phải mổ gấp. Mẹ chuẩn bị đi vay tiền tiếp, nhưng ba kiên quyết không cho. Ông nói, bạn bè họ hàng đã vay khắp lượt rồi, chỉ vay mà không trả thì còn ai muốn cho mình vay nữa!.
Hàng xóm kể với tôi: Mẹ dùng một phương pháp nguyên thuỷ và bi tráng nhất để gặt lúa mạch.
Mẹ không đủ sức gánh lúa mạch ra sân kho để tuốt hạt. Mẹ cũng không có tiền thuê người giúp. Mẹ bèn gặt dần, lúa mạch chín chỗ nào gặt chỗ đó, sau đó dùng xe cải tiến chở về nhà., Tối đến mẹ trải một tấm vải nhựa ra sân, dùng hai tay nắm từng nắm lúa mạch đập lên một hòn đá to...
Lúa mạch trồng trên ba mẫu đất của nhà, một mình mẹ làm. Mệt đến mức không đứng dậy nổi nữa thì mẹ ngồi xổm xuống cắt, đầu gối quỳ còn chảy máu, đi đường cứ cà nhắc...
Không đợi hàng xóm kể hết, tôi chạy như bay về nhà, khóc to gọi mẹ: "Mẹ, mẹ, con không thể đi học nữa đâu...". Kết quả, mẹ vẫn tống tôi lên trường.

"Chịu khổ được thì chả còn gì khó"

Tiền sinh hoạt phí mỗi tháng của tôi chỉ 60 đến 80 tệ (tương đương 120.000-160.000 VND), thật thảm hại nếu so với những người bạn học khác mỗi tháng có 200-240 tệ.
Nhưng chỉ mình tôi biết, món tiền nhỏ này mẹ tôi cũng phải tằn tiện lắm, từ ngày đầu tháng đã dành từng hào từng hào, bán từng quả trứng gà, rau xanh lấy từng đồng từng đồng, có lúc dành dụm không đủ đã phải giật tạm vài đôi chục. Mà cha tôi, em trai tôi, dường như chẳng bao giờ có thức ăn, nếu nhà ăn rau cũng chẳng dám xào mỡ, chỉ chan tí nước dưa muối ăn qua bữa.
Mẹ không muốn tôi đói, mỗi tháng mẹ chăm chỉ đi bộ hơn mười cây số mua mì tôm với giá bán buôn. Rồi mỗi cuối tháng, mẹ vất vả cõng một túi nặng lên Thiên Tân thăm tôi. Trong túi ấy ngoài những gói mì tôm ra, còn có nhiều xếp giấy loại mẹ phải đi bộ ra một xưởng in ngoài thị trấn cách nhà 6km để xin cho tôi (đó là giấy để tôi làm nháp Toán), cả một chai tương cay rất to, cải bẹ muối thái sợi, và cả một cái tông đơ để cắt tóc. (Cắt tóc nam rẻ nhất Thiên Tân cũng phải 5 tệ, mẹ muốn tôi dành tiền cắt tóc để mua thêm lấy vài cái bánh bao mà ăn).
Tôi là học sinh cấp 3 duy nhất của Thiên Tân đến cả rau ở bếp ăn nhà trường cũng không mua nổi, chỉ có thể mua vài cái bánh bao, mang về ký túc ăn cùng mì sợi khô hoặc chấm với tương ớt, kẹp dưa muối để ăn qua bữa.
Tôi cũng là học sinh duy nhất không có giấy kiểm tra, chỉ có thể tận dụng giấy một mặt của xưởng in để viết bài. Tôi là đứa học sinh duy nhất chưa bao giờ dùng xà phòng, khi giặt quần áo tôi thường đi nhà bếp xin ít bột kiềm nấu ăn (alkali - chất kiềm, dùng để hấp bánh bao, làm bánh nướng, làm nước sôđa) là xong. Nhưng tôi chưa bao giờ tự ti, tôi cảm thấy mẹ tôi khổ cực cả đời, như người anh hùng chống lại đói khổ, làm con của người mẹ như thế tôi rất tự hào.
Hồi mới lên Thiên Tân, tiết học tiếng Anh đầu tiên khiến tôi ù cạc. Khi mẹ lên, tôi kể cho mẹ nghe tôi sợ tiếng Anh thế nào, ai ngờ mẹ chỉ cười bảo: "Mẹ chỉ biết con là đứa trẻ con khổ cực nhất, mẹ không thích con kêu khó, vì chịu khổ được thì chả còn gì khó nữa".
Tôi hơi bị nói lắp, có người bảo, học tiếng Anh đầu tiên cần làm chủ được cái lưỡi của mình, bởi vậy tôi thường kiếm một hòn sỏi ngậm vào miệng mình, rồi gắng đọc tiếng Anh. Hòn sỏi cọ xát vào lưỡi tôi, có lúc máu chảy ra bên mép, nhưng tôi cố gắng để kiên trì.
Nửa năm trôi qua, hòn sỏi nhỏ đã bị mài tròn đi, lưỡi tôi cũng đã nhẵn, tiếng Anh đã thành người giỏi thứ 3 của lớp.
Tôi vô cùng cảm ơn mẹ, lời mẹ khích lệ tôi vượt qua khó khăn lớn trong học tập
.
"Nghèo đói là trường đại học tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường đại học này, thì những trường đại học như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ".
Lời nói của người mẹ nông dân ít học là động lực để cậu học sinh nghèo dày thêm ý chí và nghị lực trên đường đời.

Huy chương vàng tặng mẹ !
Có chữ thì nghèo cũng không ngại. Năm 1996, lần đầu tiên tôi được tham gia cuộc thi Olympic tri thức toàn quốc khu vực Thiên Tân, đoạt giải Nhất môn Vật lý và giải Nhì môn Toán học. Tôi được đại diện Thiên Tân đi Hàng Châu tham gia Cuộc thi Olympic toàn Trung Quốc môn Vật lý.
"Đoạt lấy chiếc Cup giải Nhất toàn Trung Quốc tặng mẹ, rồi lên đường dự Olympic Vật lý Thế giới!". Tôi không ngăn được nỗi khao khát trong lòng, tôi viết thư báo cho mẹ tin vui và mơ ước của tôi.
Kết quả, tôi chỉ được giải Nhì, tôi nằm vật ra giường, không ăn không uống.
Dù tôi là người đạt thành tích cao nhất trong đoàn Thiên Tân đi thi, nhưng nếu tính cả những khốn khổ của mẹ tôi vào, thì thành tích này không xứng đáng!
Tôi về trường, các thầy ngồi phân tích nguyên nhân thất bại cho tôi thấy: Tôi những muốn phát triển toàn diện cả Toán Lý Hoá, những mục tiêu của tôi quá nhiều nên sức lực tinh thần tôi phải phân tán rộng. Nếu giờ tôi chỉ chọn một mục tiêu trước mắt là kỳ thi Toán, nhất định tôi thắng.
Tháng 1/1997, tôi cuối cùng đã giành chiến thắng tại kỳ thi Olympic Toán toàn Trung Quốc với điểm số tuyệt đối, lọt vào đội tuyển Quốc gia, cả 10 kỳ thi kiểm tra ở đội tuyển tôi đều là người đứng đầu. Với thành tích đó, tôi được sang Argentina tham gia kỳ thi Olympic Toán quốc tế.
Nộp xong phí báo danh, tôi gói những sách vở cần chuẩn bị và tương đậu cay của mẹ lại, chuẩn bị lên đường.
Giáo viên chủ nhiệm và thầy giáo dạy Toán thấy tôi vẫn mặc bộ quần áo thải của người khác cho, những thứ áo quần màu sắc chả đâu vào đâu, kích cỡ khác nhau, bèn mở tủ áo của tôi ra, chỉ vào những áo trấn thủ vá, những áo bông tay đã phải nối hai lần, vạt đã phải chắp ba phân, hỏi tôi:
"Kim Bằng, đây là tất cả quần áo của em ư?"
Tôi chả biết nói sao, vội đáp: "Thầy ơi, em không sợ người khác chê cười! Mẹ em thường bảo, Phúc Hữu Thi Thư Khí Tự Hoa - trong lòng có sách vở tất mặt mũi sáng sủa, em mặc những thứ đồ này đi Mỹ gặp Tổng thống Clinton em cũng chẳng thấy ngượng".


Đạt Huy chương Vàng Toán quốc tế

Ngày 27/7, Olympic Toán học Thế giới lần thứ 38 chính thức khai mạc.
Chúng tôi thi liên tục suốt năm tiếng rưỡi, từ 8h30 phút sáng tới 2h chiều. Ngày hôm sau công bố kết quả. Đầu tiên công bố Huy chương Đồng, tôi không muốn nghe thấy tên mình. Sau đó công bố Huy chương Bạc, cũng không có tên tôi. Cuối cùng, công bố Huy chương Vàng, người đầu tiên, người thứ hai, người thứ ba là tôi.
Tôi khóc lên vì sung sướng, trong lòng tự nói: "Mẹ ơi, con mẹ thành công rồi!".
Tin tôi và một người bạn nữa đoạt Huy chương Vàng kỳ thi Olympic Toán học ngay chiều hôm đó đã được Đài Phát thanh Nhân dân Trung ương TQ và Đài Truyền hình Trung ương TQ đưa.
Ngày 1/8, chúng tôi vinh quang trở về, lễ đón long trọng được Hiệp hội Khoa học Trung Quốc và Hội Toán học TQ tổ chức. Khi đó, tôi muốn về nhà, tôi muốn sớm gặp mẹ, tôi muốn chính tay tôi đeo tấm huy chương Vàng chói lọi lên cổ mẹ...
Hơn mười giờ đêm tối hôm đó, tôi cuối cùng đã đội trời đêm về đến nhà. Người mở cửa là ba tôi, nhưng người một tay ôm chặt lấy tôi vào ngực trước lại chính là mẹ tôi.
Dưới trời sao vằng vặc, mẹ tôi ôm tôi rất chặt...
Tôi lấy tấm huy chương vàng đeo lên cổ mẹ, khóc một cách nhẹ nhõm và sung sướng.


Mẹ là người thầy vĩ đại nhất

Ngày 12/8, trường Trung học số 1 của Thiên Tân chật ních người, mẹ được ngồi lên bàn Chủ tịch danh dự cùng với các quan chức Cục Giáo dục Thiên Tân và các giáo sư Toán học hàng đầu. Hôm đó, tôi đã phát biểu thế này:
"Tôi muốn dùng cả sự sống của tôi để cảm tạ một người, là người mẹ đã sinh và nuôi nấng tôi. Mẹ tôi là một người phụ nữ nông dân bình thường, nhưng những đạo lý mẹ dạy tôi nên người đã khích lệ tôi cả đời. Năm tôi học lớp 10, tôi muốn mua cuốn sách "Đại từ điển Anh-Trung" để học tiếng Anh, mẹ tôi không có tiền, nhưng mẹ vẫn nghĩ cách giúp tôi.
Sau bữa cơm sáng, mẹ tôi mượn một chiếc xe cải tiến, chất một xe rau cải trắng, hai mẹ con tôi đẩy ra chợ huyện cách hơn bốn mươi km bán rau. Đến được chợ đã gần trưa, buổi sáng đó tôi và mẹ chỉ ăn hai bát cháo ngô nấu với khoai lang đỏ, lúc đó bụng đói cồn cào, chỉ mong có ai tới mua cho cả xe rau ngay. Nhưng mẹ vẫn nhẫn nại mặc cả từng bó, cuối cùng bán với giá 1 hào một cân. Hai trăm cân rau đáng lẽ 21 tệ, nhưng người mua chỉ trả 20 tệ.
Có tiền rồi tôi muốn ăn cơm, nhưng mẹ bảo nên đi mua sách trước, đó là việc chính của ngày hôm nay. Chúng tôi đến hiệu sách hỏi, giá sách là 18 tệ 2 hào 5 xu, mua sách rồi còn lại 1 tệ 7 hào 5 xu. Nhưng mẹ chỉ cho tôi 7 hào rưỡi đi mua hai cái bánh bột nướng, một tệ kia còn phải cất đi để dành cho tôi làm học phí.
Tuy ăn hết hai cái bánh nướng, nhưng đi bộ tiếp 40km về nhà, tôi vẫn đói tới mức hoa mắt chóng mặt, lúc này tôi mới nhớ ra tôi đã quên không phần cho mẹ ăn một miếng bánh nướng nào, mẹ tôi chịu đói cả ngày, vì tôi mà kéo xe suốt 80km đường xa.
Tôi hối hận tới mức chỉ muốn tát cho mình 1 cái, nhưng mẹ tôi chỉ bảo: "Mẹ ít văn hoá, nhưng mẹ nhớ khi nhỏ được thầy giáo dạy là, Golgi có nói một câu: Nghèo đói là trường đại học tốt nhất. Nếu con có thể tốt nghiệp trường đại học này, thì những trường đại học như Thiên Tân, Bắc Kinh con chắc chắn đều đỗ."
Khi mẹ nói thế mẹ không nhìn tôi, mẹ nhìn ra con đường đất xa xôi, cứ như thể con đường đất đó có thể thông tới tận Thiên Tân, đi thẳng tới Bắc Kinh.
Tôi nghe mẹ bảo thế, tôi không thấy đói nữa, chân tôi không mỏi nữa..
Nếu nghèo đói là trường đại học tốt nhất, thì tôi muốn nói rằng, người mẹ nông dân của tôi chính là người thầy giáo giỏi nhất của đời tôi".
Dưới khán đài, không biết có bao nhiêu đôi mắt đã ướt đẫm, tôi quay về phía người mẹ tóc hoa râm của tôi, cúi người xuống kính cẩn...


Tôi sẽ đi dù đường còn xa…

Ngày 5/9/1997 là ngày tôi rời gia đình đi nhập học ở ĐH Bắc Kinh, khoa Toán.
Ngọn khói bếp dài cất lên từ trên nóc ngôi nhà nông dân cũ nát gia đình tôi. Người mẹ chân thập thễnh của tôi đang nấu mì sợi cho tôi. Những bột mì này có được nhờ mẹ đổi 5 quả trứng gà cho hàng xóm. Chân mẹ bị thương vì mấy hôm trước, để thêm tí tiền cho tôi nhập học, mẹ đẩy một xe chất đầy rau từ thôn ra thị trấn, trên đường bị trật chân.
Bưng bát mì, tôi đã khóc.
Tôi buông đũa quỳ xuống đất, xoa nắn chỗ chân sưng phồng lên to hơn cả cái bánh bao của mẹ, nước mắt rơi xuống đất... Nhà tôi ở Thiên Tân, làng Đại Hữu Đới, huyện Vũ Thanh.
Tôi có một người mẹ tốt nhất thế gian tên là :
Lý Diệm Hà.                                         

Thay cho lời kết :
Con đi khắp vạn nẻo đường
Giờ con đã hiểu tình thương mẹ hiền

Hoa giả, hoa thật (Thùy Dương sưu tầm)



Đứa bé chỉ vào lọ hoa có cắm mấy bông lay-dơn nhựa màu trắng đục, hỏi:

- Sao hoa kia không héo hả mẹ?

- Vì đó là hoa giả, con ạ.

- Sao hoa giả lại không héo?

- Vì... vì không như hoa thật, hoa giả không sống, nên nó cũng chẳng bao giờ chết.

- Hoa giả và hoa thật, hoa nào tốt hơn?

- Tất nhiên là hoa thật, con gái yêu của mẹ ạ.

- Vậy sao nhà ta dùng hoa giả?

Bà mẹ không đáp, chỉ dịu dàng hôn lên mái tóc của nó. Đứa bé chẳng hỏi gì thêm, lát sau bỏ ra sân chơi với các bạn.
Chờ con đi khỏi, bà đến bên lọ hoa rồi cầm mấy bông lay-dơn nhựa trên tay. Bà tần ngần nhìn hồi lâu như cân nhắc có nên đem vứt sọt rác hay không. Cuối cùng, khẽ thở dài, bà lặng lẽ cắm hoa vào lọ.

Món quà tặng mẹ ( Tác giả: Thái Bá Tân. Thùy Dương sưu tầm)



 Không biết bao giờ và ở đâu, nhưng có người đã kể tôi nghe một câu chuyện thế này:

Một thanh niên đến hỏi mua quả gì đấy ở bà bán hàng nọ. Bà kia, khi thấy bảo mua cho mẹ, liền chọn cho anh ta một quả to nhất, ngon nhất và nói:

- Từ sáng đến giờ biết bao người mua hàng của tôi, nhưng anh là người đầu tiên hỏi mua cho mẹ. Vì lòng tốt của anh và vì người mẹ đã sinh ra anh, tôi xin biếu anh quả này.

Bây giờ, bất chợt nhớ đến câu chuyện trên, tôi đi lại một bà bán dừa, bảo bà ta chọn cho tôi một quả thật ngon, nhắc to hai lần để mang về Diễn Châu tặng mẹ.

Bà bán dừa ngước nhìn lên, suy nghĩ một lát rồi thản nhiên bảo tôi:

- Thế thì anh phải tự chọn lấy. Và cũng không nên quá nhiều lời như thế về món quà anh mua tặng mẹ.

Thứ Hai, 21 tháng 2, 2011

Tái sinh và luân hồi theo quan điểm Phật giáo

Phỏng vấn PGS. TS. Hà Vĩnh Tân
Phattuvietnam.net   
08:07' PM - Thứ hai, 20/12/2010

Hỏi 1: PGS.TS lý giải như thế nào về những trường hợp trong thực tế như "cháu bé ở Vụ Bản"; đấy có phải là tái sinh luân hồi hay không?

Trả lời: Câu chuyện cháu bé ở Vụ Bản theo những người trong cuộc đã được nhiều người đưa lên phương tiện truyền thông. Đây là một vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu tâm linh khá thú vị cần được nghiên cứu nghiêm túc mới có thể kết luận được.

Ta biết rằng, con người là thể tổng hòa của hai mặt vật chất và tinh thần và loài người có hai đời sống là vật chất và tinh thần đang quện hòa nhau tương hỗ với nhau.

Phần tinh thần của con người, còn gọi là phần tâm linh, lại bao gồm trí tuệ và cảm xúc tâm hồn. Câu hỏi “sau khi phần thể xác của con người dừng hoạt động, thì phần tâm linh có còn tồn tại không? Và nếu tâm linh vẫn còn tồn tại thì ở mức độ nào và sự vận động của nó ra sao?” thuộc vào vấn đề khó nhất đối với trí tuệ loài người.

Cho tới nay khoa học chưa có câu trả lời rõ ràng cho vấn đề này!

Khoa học và công nghệ đã có những bước tiến nhảy vọt trong việc hiểu biết phần thể xác của con người và áp dụng kiến thức đó một cách rộng rãi vào đời sống vật chất của con người. Khoa học với ngành máy tính điện tử, truyền thông và trí tuệ nhân tạo cũng đang giúp ta mở dần một cánh cửa vào việc nhận biết và hiểu sâu hơn bản chất đời sống trí tuệ và tư duy của con người.

Tuy nhiên, đời sống tâm linh là vô cùng phong phú, và là một thực tại có bản chất huyền bí, vô hình, nên việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào nghiên cứu các hiện tượng của đời sống tâm linh nói chung lại còn rất hạn chế, hiện mới chỉ dừng lại việc ghi nhận và thống kê các “hiện tượng tâm linh”.

Khoa học vẫn chưa thể giúp ta “quan sát Tâm linh” một cách trực tiếp và chưa thể giải thích rạch ròi lĩnh vực này.

Các tôn giáo từ lâu đã quan tâm đến đời sống tâm linh của loài người, họ đều có triết lý và quan điểm riêng về các vấn đề đạo đức, tình thương giữa con người, cũng như về sự tồn tại của một phần tâm linh sau khi thể xác con người không còn hoạt đông.

Phật giáo, một tôn giáo có nền triết lý cởi mở và gần với khoa học nhất, trong hơn hai ngàn năm trăm năm nay cũng đã có nhận thức sâu sắc và khá rõ ràng về vấn đề tái sinh và luân hồi của tâm linh sau khi thể xác chết.

Đối với một hiện tượng hay câu chuyện tâm linh cụ thể như câu hỏi về “cậu bé ở Vụ Bản Nam Định” nêu ở đây, tôi cho rằng, hiện tượng hay câu chuyện tâm linh chỉ là “bằng chứng hiển nhiên” có sức thuyết phục với ai đã được tiếp xúc và thấy biết trực tiếp nó.

Là “những người trong cuộc”, họ thường nói: “tôi đã được mắt thấy tai nghe rõ ràng nên không thể không tin vào việc đó!”.

Ngược lại, với những người ngoài cuộc chỉ được nghe kể lại, thì thường rất khó mà tin ngay vào những chuyện hiếm khi xảy ra như vậy, việc tin hay không tin chủ yếu phụ thuộc vào kinh nghiệm và lập luận của riêng mình.

Quan điểm của tôi, như một người mới chỉ được đọc và nghe gián tiếp, là: “nếu câu chuyện đã được nhân chứng kể lại “là sự thật” (tôi xin nhấn mạnh, “nếu đó là sự thật”), thì đây chính là một bằng chứng về “sự Tái sinh luân hồi của một con nguời” được trình bày trong giáo lý của nhà Phật.

Còn “việc đó có phải là sự thật hay không?” xin dành lại cho các nhà khoa học trả lời sau khi nhập cuộc đầy đủ và thực sự nghiêm túc.

Tôi tin rằng, chỉ khi hiểu sâu sắc các kinh nghiệm và kiến thức cũng như biết cách áp dụng đúng đắn, hài hòa các phương pháp của Khoa học và Phật học, các nhà nghiên cứu tâm linh mới có thể thâm nhập vào lĩnh vực tinh tế và nhậy cảm này.

Chỉ khi đó chúng ta mới có được những câu trả lời có sức thuyết phục về các vấn đề Tâm linh.

Hỏi 2: Vậy tái sinh được hiểu theo nhà Phật thì như thế nào? Trong thực tế điều này đã được công nhận chưa?

Trả lời: Vấn đề về con người và sự tái sinh luân hồi là một chủ đề cốt yếu của nhà Phật, được trình bày trong toàn bộ giáo lý của nhà Phật và đặc biệt trong “Duy thức học” – một “bộ môn khoa học” trong Phật học. Tôi chỉ xin trình bày vắn tắt như sau:

Con người có “thân mạng” được cấu thành và phối kết hợp bởi năm nhóm, mà Phật giáo gọi là “ngũ uẩn” (hay năm kết tập) vật chất và tinh thần, gồm: Sắc uẩn (xác thân), Thọ uẩn (thọ cảm ưa chịu), Tưởng uẩn (tư tưởng hay tưởng tượng), Hành uẩn (hành vi tức việc làm) và Thức uẩn (thức trí phân biệt).

Trong đó, Sắc uẩn là phần “vật chất”, và bốn uẩn kia thuộc về phần tinh thần. Năm nhóm này biến đổi từng phút giây như một dòng nước.

Khi mệnh chung, thân xác mất đi, những nhóm đó tan rã, nhưng kết quả của những hành động về thân, khẩu , ý vẫn còn tác động. Cái “còn tác động” sau đó ta gọi là “nghiệp lực”.

Sắc uẩn ám chỉ xác thân, có hình thức khối lượng, biến đổi theo thời gian, và sờ thấy được, nên nó cụ thể.

Còn thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, và thức uẩn thì biến hiện, trừu tượng, vô hình như trường điện từ. Bốn uẩn này phải nương vào sắc uẩn (xác thân còn sinh hoạt) mới hiển lộng ra được. Khi hoạt động, bốn uẩn (hay danh pháp) ấy lại hiển lộng ra hai mặt, là mặt nổi và mặt chìm:

  • Mặt nổi gồm thọ uẩn, tưởng uẩn, và hành uẩn.
  • Mặt chìm tuy chỉ có một mình thức uẩn (thuộc tinh thần) hoạt động, nhưng nó lại rất nhậy bén, đa diện và phong phú.
Theo Duy thức học trong Phật giáo, thì vì thức uẩn rất phức tạp, có thể hình dung như nó gồm ba vòng ẩn hoạt, huyền bí vô cùng, là vòng ngoài, vòng giữa, và vòng trong. Ví như chiều sâu của đại dương gồm thượng tầng, trung tầng, và đáy biển.

Vòng ngoài của thức uẩn tương ứng với thượng tầng của đại dương (kể cả mặt nước), nơi hứng chịu mọi vật, và áp lực của gió bão. Vòng ngoài này hướng ra ngoại cảnh qua năm giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) chịu tất cả ảnh hưởng của ngoại cảnh, đồng thời liên kết với vòng trong cùng qua vòng giữa. Vòng ngoài ấy (gồm năm thức đầu) ta tạm gọi là vòng nhận thức.

Vòng giữa của thức uẩn tương ứng với trung tầng của đại dương, gắn với tư duy, có tác dụng phân biệt trước một đối tượng, để phản ứng ra ngoài hay nhận vào bên trong, cũng như trung tầng của đại dương có tác dụng đẩy bất cứ một vật thể gì lên mặt nước, hay nhận chìm vật ấy xuống đáy biển. Vòng giữa này (là thức thứ sáu) có thể gọi là vòng tri thức.

Vòng trong cùng của thức uẩn tương ứng với đáy biển, có đặc tánh tự nhiên là yên lặng thống kê mọi vật. Cũng như đáy biển là kho chứa tất cả những gì chìm xuống đó và giữ nguyên vị, không dời chỗ. Vòng trong cùng, hay trung tâm của thức uẩn này, được gọi là vòng Linh thức.

Vòng Linh thức này gồm có hai phần: Phần động (hiển lộng) gọi là Mạt-Na, quen gọi là “hồn”, và phần tĩnh (an nhiên) gọi là A-Lại-Da, thường gọi là “phách”.

Đó là hai thức lực tiềm lặng ‘nằm’ vừa trong vừa ngoài trí não con người. Hai loại siêu năng này biểu lộ được là do động lực cảm ứng của dòng nhân điện lưu chuyển trong não và thân thể.

Hồn lực Mạt-Na (còn gọi là thức thứ bảy) chủ trì các sự hiếu động và hành vi con người. Nó tượng trưng cho “tự ngã” (tức là cái ta), nắm giữ toàn diện cá thể nhân sinh. Phách lực A-Lại-Da (hay tàng thứcthức thứ tám) ẩn sâu trong tâm khảm, nên rất tiềm tàng, vốn tĩnh lặng.

Cái “kho” A-Lại-Da cất giữ không những tất cả hiểu biết và kinh nghiệm của riêng ta trong hiện tại, mà nó còn tồn trữ toàn thể thông tin về pháp hành từ vô thủy quá khứ, đến mãi mãi muôn kiếp luân hồi trong tương lai.

Phách lực hay tàng thức A-Lại-Da tượng trưng cho “đại ngã”, làm tiêu biểu cho “bản thể vũ trụ”. Nó là “gạch nối” giữa tiềm thức với cõi vô cùng, và là “pháp thân” của mọi sinh linh khi chưa chuyển động.

Phách lực A-Lại-Da, đôi khi còn được gọi là Thần Thức. Thần thức này cũng là “chân ngã” hay “tịnh ngã”, tứclà cái “ta thật” của mỗi chúng ta, theo Phật học, có khả năng thay đổi: tiến hóa hay thối hóa là do ba nghiệp (ý, khẩu, thân) mà chúng ta tạo trong quá khứ và hiện tại….

Hay nói cách khác, Thần thức con người sau khi lâm chung được nghiệp lực dẫn đi theo các nẻo đường luân hồi ở các cõi tâm linh như địa nguc, súc sinh, ngã quỷ, bán thần (Atula), người hay thiên thần…Trong trường hợp tái sinh lại kiếp người, thì nghiệp lực dẫn thấn thức nhập vào hợp thể tinh cha cộng trứng mẹ mà tạo nên bào thai con người.


Cần nói thêm rằng, có hai quan niệm thông thường trái ngược về vấn đề tái sinh luân hồi mà theo Phật giáo đều không đúng:

1/ Con người sau khi chết là hết, cả linh hồn và thể xác mất hẳn;

2/ Linh hồn là bất tử. Chân lý vô thường của vạn vật là: mọi sự vật, hiện tượng đều biến đổi không ngừng, Còn có bản thể hay bản tính của vũ trụ mới là bất biến, thường hằng mà thôi!

Theo Phật giáo, Đức Phật Thích Ca Mầu Ni, bằng công trình thiền quán vĩ đại 49 ngày, đã chỉ rõ: “tất cả mọi người đều có sẵn hạt giống của trí tuệ giác ngộ trong lòng”.

Phật gọi hạt giống của trí tuệ giác ngộ là “Chân như giác tính” hay nói tắt là Giác tính. Duy thức học cho rằng Giác tính nằm sâu trong tàng thức A-Lại-Da, lại bị mê mờ, người thường khó nhận biết được. Đây cũng chính là Huệ mạng của con người, gọi là nằm sâu trong “thân mạng” (gồm “ngũ uẩn giai không”) nhưng lại bao trùm khắp vũ trụ - “pháp giới”.

Huệ mạng” là phần tinh túy nhất, còn được gọi hay “Phật tính”, giống như trong khoa học, người ta gọi bản tuần hoàn của các nguyên tố hóa học là bản tuần hoàn Meldeleev vậy.

Huệ mạng” này ai ai cũng có, gắn liền với bản thể và bản tính của vũ trụ, vì vậy mà tồn tại vĩnh hằng. Chỉ những con người giác ngộ hoàn toàn như Phật tổ Như Lai là bậc “Vô thượng Chính đẳng Chính giác” mới nhận biết đầy đủ được huệ mạng này.

Cõi này của Tâm linh nhà Phật gọi là “Vô Dư Niết Bàn”. Nhà Phật phân biệt cõi “Vô Dư Niết Bàn” này với “cõi “Hữu Dư Niết Bàn”, thường được gọi là “cõi Vĩnh hằng” hay “Niết bàn”, nơi mà Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sinh tới, sau khi lâm chung...

Trình bày về một luận thuyết rộng lớn và tinh tế của Phật giáo về sự tái sinh luân hồi một cách vắn tắt như trên, bằng ngôn ngữ phổ thông dùng ít các thuật ngữ chuyên môn, là điều khó; cộng với cái thấy hiểu còn hạn chế của mình, nên không khỏi có phần sai và thiếu, mong các bạn tìm đọc thêm bài giảng của các bậc thiền sư chân tu hoặc các nhà khoa học nghiên cứu tâm linh trong và ngoài nước để hiểu rõ và đúng hơn về vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh quan trọng này.

Đây cũng là vấn đề thuộc loại hóc búa nhất đối với Khoa học.

Ta biết, Khoa học cũng còn chưa tìm ra cách ghi đọc và giải mã ngay lập tức ý nghĩ của con người. Có thể nói, việc chứng minh rõ ràng được sự tồn tại và vận hành của phách lực A-Lại-Da hay sự luân hồi của Thần thức là một bài toán còn khó hơn nữa mà Phật học đặt ra trước Khoa học.

Tuy nhiên, khoa học cũng không chịu lùi bước và hiện đang có những bước tiến lớn trong việc nghiên cứu một dạng thông tin mới với những hiện tượng siêu việt và công nghệ siêu việt của tương lai: Lý thuyết Thông tin Lượng tử với hiện tượng Thông tải Lượng tử (Quantum Information & Quantum Telepotation) để ứng dụng phát triển công nghệ Truyền thông Lượng tử & Máy tính Lượng tử (Quantum communicationm & Quatum Computer).

Tôi có niềm tin rằng, Lý thuyết Thông tin Lượng tử cùng những tiến bộ trong các ngành khoa học khác như máy tính điện tử, truyền thông, y sinh học phân tử, trí tuệ nhân tạo … nhất định sẽ giúp chúng ta giải được bài toán lớn về sự tồn tại và vận hành của phách lực A-Lại-Da, thiết lập hoàn toàn được cầu nối giữa hai con đường Khoa học và Đạo học chân thực, dẫn loài người tới mục đích cao quý là sự giác ngộ Chân lý vũ trụ, giúp chúng ta có được An lạc và Hạnh phúc ngay tại cuộc đời này.

Xin giới thiệu hai cuốn sách để độc giả tham khảo:

1- “Thuyết Luân Hồi và Phật Giáo Tây Phương” (Rebirth and the Western Buddhist), Tác giả: Tiến sỹ vật lý Martin Willson, dịch giả đại đức Thích Nguyên Tạng, 2006. http://www.quangduc.com/Taisanh/18luanhoi.html

2- “Sự sống sau cái chết…”, Tác giả: Deepak Chopra, The New York Times Bestseller, Nhã Nam - Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn¸ 2009.